Đặc điểm Cừu_Pramenka

Cừu Travnicka pramenka

Cừu Pramenka là một con cừu kiêm dụng của các tính trạng sản xuất kết hợp (thịt-sữa-len). Về tầm vóc, chúng có thông số khoảng giữa 60-70kg, và các cừu đực giữa 80-100kg. Sản lượng sản xuất sữa của chúng là tương đối lớn, nhưng khác nhau đáng kể giữa các chủng (70-130 lít nếu cừu đang cho con bú nhiều hơn 6 tháng) và cũng phụ thuộc vào thực phẩm khu cho chúng ăn. Lượng len trung bình của chúng là 1,4 kg. Màu lông cừu chủ yếu là màu trắng, mặc dù một số chủng có thể được có nhiều màu và thậm chí là có màu đen.

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê.

Khả năng sinh sản của cừu Pramenka là tương đối tốt. Từ 100 trừu cái trong độ tuổi sinh sản có thể đẻ được đến 100-110 cừu non, trọng lượng sơ sinh của những con chiên là giữa 2 và 4 kg, tùy thuộc vào mức độ tương và dinh dưỡng của con mẹ, cừu non có tỷ lệ tử vong thấp. Dù chọn lọc về khả năng sinh sản là khá khó khăn, ảnh hưởng của di truyền từ những con đực là khá rõ. Để khắc phục việc hệ số di truyền về khả năng sinh sản thấp ở cừu, lai giữa các giống cũng là một giải pháp khả thi. Sự khác biệt về sinh sản tồn tại giữa các giống và kiểu gen ở cừu, cừu Romanov thường có tỷ lệ đẻ rất cao so với cừu Pramenka (250% so với 110%).